Để đón nhận và sống niềm vui này, chúng ta cần thực hành ba phương thế, đó là: tìm kiếm Chúa, lắng nghe được tiếng của Ngài, và ra đi chia sẻ niềm vui Phục sinh cho mọi người.

SUY NIỆM LỜI CHÚA THỨ BA BÁT NHẬT PHỤC SINH – NĂM A

 

LỜI CHÚA: Cv 2, 36-41; Ga 20, 11-18

 

Bài đọc 1: Cv 2,36-41

Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su.

Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.

36 Trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông Phê-rô nói với người Do-thái rằng : “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này : Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”

37 Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác : “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì ?” 38 Ông Phê-rô đáp : “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội ; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” 40 Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói : “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” 41 Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.

 

Tin Mừng: Ga 20,11-18

Tôi đã thấy Chúa, và Người đã nói với tôi.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

11 Khi ấy, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

 

SUY NIỆM:

CHỨNG NHÂN NIỀM VUI PHỤC SINH

Kính thưa quý ông bà và anh chị em!

Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan quảng diễn cho chúng ta về hai sắc thái của bà Maria Mác-đa-la. Một mặt là cảnh tang thương, buồn bã bao trùm người đàn bà tội nghiệp sau khi chứng kiến xác Thầy mình không còn ở trong mộ: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”(Ga 20, 13b). Mặt khác, bà tìm thấy được niềm vui, hạnh phúc khi được gặp và trò chuyện với Đức Kitô Phục sinh. Cũng thế, Đức Kitô Phục sinh đã mang đến niềm vui, hạnh phúc, và ánh sáng cứu độ cho nhân loại khi diện kiến tôn nhân Thiên Chúa. Từ đây, bóng tối sự chết sẽ không còn là nỗi đau thương mất mát. Tội lỗi không còn nơi trú ngụ. Vì thế, chúng ta có sứ vụ chia sẻ tin vui Phục sinh cho người khác. Vậy, để làm chứng về niềm vui Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cần sống những phương thế sau.

Trước hết, chúng ta phải khao khát tìm gặp Chúa. Quả thật, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự tìm kiếm; chúng ta tìm kiếm những gì đã mất hay chính những mục tiêu đề ra cho bản thân. Để đạt được điều này, chúng ta phải có lòng khát khao mạnh mẽ. Trong Tin Mừng, chúng ta bắt gặp hình ảnh bà Maria Mác-đa-la đang tìm kiếm điều đã mất. Sau những ngày đau buồn về cái chết bi đát của Thầy mình, bà Maria đã đến mộ khóc vì thương nhớ Thầy. Trong sự đau khổ, Đức Kitô đã hiện ra an ủi bà, và giúp bà xác tín lại niềm tin vào những lời Người đã nói với bà trước khi chịu nạn. Cũng thế, là những Ki-tô hữu,tiên vàn chúng ta phải khao khát tìm gặp Chúa và ở lại với Người. Chúng ta tìm gặp Chúa ngang qua đời sống thiêng liêng: tham dự thánh lễ mỗi ngày, năng lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, ăn chay – cầu nguyện, và sống tình hiệp thông với nhau. Kinh nghiệm của thánh Augustinô phần nào diễn ra cho chúng ta: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa”.

Thứ đến, chúng ta phải lắng nghe được tiếng Chúa. Để nghe được tiếng Chúa, chúng ta phải trở về với cõi lòng mình qua sự thinh lặng. Thật vậy, sống trong một thế giới ồn ào và tấp nập, nếu không có sự tĩnh lặng, chúng ta dễ bị cuốn vào sự náo nhiệt đó. Vì vậy, chúng ta sẽ khó nhận ra được đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của thế gian. Bà Maria Mác-đa-la cũng thế, đứng trước sự Phục sinh của Thầy mình, bà đã không nhận ra Ngài, bà nghĩ rằng người đang nói chuyện với mình chỉ là người làm vườn. Có lẽ, tâm trí bà lúc này đang bị chi phối quá nhiều bởi sự sợ hãi, đau buồn, hay cả tình cảm riêng tư đã lấn át lý trí nên bà đã không nhận ra Chúa. Chỉ đến khi Chúa gọi tên bà cách thân mật: “Maria!”, bà mới nhận ra Ngài. Ngày nay, Thiên Chúa không gọi chúng ta cách trực tiếp như Chúa đã gọi bà Maria Mác-đa-la, nhưng Ngài gọi chúng ta qua các biến cố trong cuộc đời: niềm vui – nỗi buồn, thành công – thất bại, hay thậm chí qua tiếng rên xiết của những người nghèo, những người bị xã hội gạt ra bên lề. Chính Mẹ Têrêsa Calcutta đã có kinh nghiệm sâu sắc về điều này, khi Mẹ bỏ qua những nghị kỵ, gièm pha của người đời để dấn thân phục vụ những người bệnh tật, những người không được xã hội tôn trọng nhân phẩm. Bởi lẽ, đối với Mẹ “Chúng ta cần phải phục vụ Chúa Giêsu trong người nghèo bằng bất cứ cách thức nào Ngài mời gọi.”. Như thế, để lắng nghe được tiếng của Chúa, chúng ta phải tỉnh thức và nhạy cảm trước những biến cố đời mình.

Cuối cùng, chúng ta phải ra đi đem niềm vui Phục sinh đến cho người khác. Quả thật, bà Maria Mác-đa-la sau khi tìm gặp được Chúa, bà cố gắng giữ Người lại cho riêng mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu bảo bà: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha” (Ga 20, 17a). Sau đó, bà đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20, 18). Cũng vậy, sau khi tìm gặp được Chúa, lắng nghe được tiếng của Ngài, Chúa cũng mời gọi chúng ta phải can đảm “ra đi” làm chứng về những điều ta thủ đắc được từ nơi Ngài. Vậy, chúng ta cần “ra đi” như thế nào? Thứ nhất, chúng ta phải “ra đi” khỏi những kiêu ngạo, ích kỷ không giữ Chúa cho riêng mình như bà Maria Mác-đa-la. Thứ hai, chúng ta phải “ra đi” khỏi bức tường an toàn của bản thân, khỏi những vun vén hưởng thụ để đến với những con người “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Cuối cùng, chúng ta phải “ra đi” khỏi con người cũ, con người yếu đuối tội lỗi, để ta được tái sinh con người mới nơi Đức Kitô Phục sinh. Vì thế, lời mời gọi của Đức Kitô Phục sinh đòi buộc chúng ta phải dấn thân lên đường phục vụ Chúa và tha nhân vô vị lợi.

Tóm lại, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta sống niềm vui Phục sinh và ra đi làm nhân chứng về Đức Kitô Phục sinh cho con người thời đại hôm nay. Để đón nhận và sống niềm vui này, chúng ta cần thực hành ba phương thế, đó là: tìm kiếm Chúa, lắng nghe được tiếng của Ngài, và ra đi chia sẻ niềm vui Phục sinh cho mọi người. Bởi lẽ, như lời thánh Phaolô đã nói với cộng đoàn Côrintô: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì niềm tin của anh em thật hão huyền”(1Cr 15, 17). Amen.

Tu sĩ Phêrô Lê Văn Bắc, M.F.