“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”
SUY NIỆM LỜI CHÚA THỨ TƯ SAU CHÚA NHẬT I TN – NĂM B
Lời Chúa: Sm 3, 1-10. 19-20; Mc 1, 29-39
Bài đọc 1: 1 Sm 3,1-10.19-20
Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ nhất.
1 Hồi ấy, cậu bé Sa-mu-en phụng sự Đức Chúa, có ông Ê-li trông nom. Thời ấy, lời Đức Chúa thì hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra. 2 Một ngày kia, ông Ê-li đang ngủ ở chỗ ông, mắt ông đã bắt đầu mờ, ông không còn thấy nữa. 3 Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. 4 Đức Chúa gọi Sa-mu-en. Cậu thưa : “Dạ, con đây !”, 5 rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa : “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo : “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi.” Cậu bèn đi ngủ. 6 Đức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến với ông Ê-li và thưa : “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo : “Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” 7 Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. 8 Đức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa : “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Bấy giờ ông Ê-li hiểu là Đức Chúa gọi cậu bé. 9 Ông Ê-li nói với Sa-mu-en : “Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa : ‘Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.’” Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình.
10 Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước : “Sa-mu-en ! Sa-mu-en !” Sa-mu-en thưa : “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”
19 Sa-mu-en lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu. 20 Toàn thể Ít-ra-en, từ Đan tới Bơ-e Se-va, biết rằng ông Sa-mu-en được Đức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người.
Tin Mừng: Mc 1,29-39
Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
29 Khi ấy, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. 30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà. 31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy ; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. 33 Cả thành xúm lại trước cửa. 34 Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. 36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm kiếm. 37 Khi gặp Người, các ông thưa : “Mọi người đang tìm Thầy !” 38 Người bảo các ông : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” 39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
SUY NIỆM:
PHƯƠNG THẾ LOAN BÁO TIN MỪNG
Kính thưa quý ông bà và anh chị em!
Giáo hội lữ hành luôn gắn liền với căn tính loan báo Tin mừng. Ý thức này khởi đi từ lệnh truyền của Chúa Giêsu trước và sau khi Ngài Phục sinh. Bởi đó, sứ mạng này không chỉ dành riêng cho hàng giáo phẩm, tu sĩ hay các nhà truyền giáo, mà còn cho tất cả mọi người Ki-tô hữu. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi thông dự vào chức năng ngôn sứ của Chúa Giêsu qua việc loan báo Tin mừng Cứu Độ, cũng như giáo lý của Giáo hội cho mọi người trên thế giới.
Quả thế, qua Tin mừng hôm nay, thánh sử Mác-cô quảng diễn lại cho chúng ta về hành trình loan báo Tin mừng của Đức Giêsu gắn liền với những sứ vụ của Ngài.
Trước hết, Đức Giêsu chữa lành bệnh tật thể lý cũng như tinh thần cho những ai tin vào Ngài. Đức Giêsu đã đến nhà ông Si-mon và An-rê, và Ngài chữa lành bệnh cảm sốt cho bà nhạc gia của Si-mon. Sau đó, khi mặt trời xế bóng, Ngài lại chữa lành cho nhiều người mắc đủ thứ bệnh tật, thậm chí cả những người bị quỷ ám khi họ tìm đến với Ngài.
Thứ đến, trong đời sống, Đức Giêsu luôn quân bình giữa sứ mạng và cầu nguyện. Mặc dù Ngài tất bật với biết bao công việc thường nhật, bị đám đông ồn ào bao quanh suốt ngày, nhưng Ngài vẫn ưu tiên dành thời gian để cầu nguyện. Ngài không để công việc chi phối đến đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Vì thế, sau mỗi ngày làm việc, Ngài luôn tìm đến nơi thanh vắng để có những phút giây cầu nguyện thân tình với Chúa Cha.
Cuối cùng, Đức Giêsu dấn thân vì tình yêu. Quả thật, trong thiên tính, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng vì tình yêu, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ mọi vinh quang, vâng phục thánh ý Chúa Cha để xuống thế làm người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Trong nhân tính, vì tình yêu, Chúa Giêsu luôn sống tương quan mật thiết với con người, dấn thân phục vụ vì lợi ích của con người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh, và những người bị xã hội gạt ra bên lề: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1, 38).
Như thế, qua sứ mạng của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi tiếp tục trở nên cánh tay nối dài của Ngài trong công cuộc loan báo Tin mừng cho con người hôm nay. Vậy chúng ta loan báo Tin mừng bằng cách nào? Trước hết, chúng ta hãy thực hành việc chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền cho tha nhân. Mặc dù chúng ta không có quyền năng như Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được mời gọi chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cho người khác qua các cử chỉ yêu thương, những lời nói động viên, khích lệ hay qua sự lắng nghe để đồng cảm với những nỗi khổ đau mà họ đang gánh chịu. Thứ đến, noi gương Chúa Giêsu, chúng ta loan báo Tin mừng bằng cách chu toàn những bổn phận thường nhật của mình, đồng thời cũng biết dành thời gian tĩnh lặng cho tâm hồn qua đời sống cầu nguyện, mở rộng con tim để gặp gỡ và lắng nghe thánh ý Chúa. Cuối cùng, vì tình yêu, chúng ta sống dấn thân cho sứ vụ ngang qua đời sống bác ái, phục vụ Chúa và tha nhân vô vị lợi. Bên cạnh đó, chúng ta cần ra khỏi những toan tính ích kỷ, những kế hoạch riêng tư để cho Chúa biến đổi con tim của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta biết sống khiêm tốn, tin tưởng và phó thác hơn. Amen.
Tu sĩ Phêrô Lê Văn Bắc, M.F.