-
Ngày Đăng: 25 March 2021
-
Lượt xem: 7876
Article Index
QUY CHẾ TỔNG QUÁT
Trích từ ấn bản mẫu lần ba, do Thánh bộ về Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích chịu trách nhiệm in ấn
QUY CHẾ TỔNG QUÁT SÁCH LỄ RÔMA
Ðức Giáo Hoàng Gioan PhaoLô II đã phê chuẩn chấp nhận ấn bản Sách Lễ Rôma mới ngày 11 tháng Giêng năm 2000. Thánh Bộ về Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích ban hành ngày 20 tháng Tư, tuyên bố đây là bản mẫu, và coi sóc việc in ấn. Tuy nhiên, để cho bản văn Quy Chế Tổng Quát, nằm trong Sách Lễ Rôma đó, được nhận biết rộng rãi và được các Hội Ðồng Giám Mục cho dịch ra tiếng bản xứ, sau đó xin Toà Thánh công nhận, những trang sau đây, trích từ ấn bản mẫu thứ ba, được cho xuất bản riêng ra, theo đúng luật.
Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Chí Cần phiên dịch để tham khảo.
Ghi chú quan trọng:
Trong Quy Chế Tổng Quát có phân biệt rõ giữa "sacerdos" và "presbyter" mà bản dịch Quy Chế Tổng Quát trong Sách Lễ Rôma xuất bản năm 1992 đều dịch là "linh mục". Vì "sacerdos" cử hành Thánh Lễ có thể là Giám Mục hay Linh Mục, nên thiết nghĩ dịch như trên không chính xác, và đề nghị dịch "sacerdos" là "vị tư tế".
LỜI MỞ ÐẦU
Chứng tích về một đức tin không thay đổi
Công nhận truyền thống liên tục
Thích ứng với những điều kiện mới
1. Khi Chúa Kitô sắp cử hành bữa tiệc Vượt Qua với các môn đệ, trong đó, Người thiết lập hy lễ Mình và Máu Người, thì Người truyền phải sửa soạn một phòng rộng lớn, với đầy đủ tiện nghi (Lc 22,12). Mệnh lệnh này Hội Thánh vẫn nghĩ là cũng có liên hệ đến mình, khi ấn định những gì để chuẩn bị tâm hồn, nơi chốn, nghi thức, bản văn liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ. Những quy tắc ngày nay được ban hành thể theo ý muốn của Công Ðồng Vaticanô II, cũng như Sách Lễ mới mà từ nay Hội Thánh, theo nghi thức Rôma, sẽ dùng khi cử hành Thánh Lễ, tất cả những điều đó lại một lần nữa nói lên sự lo lắng, niềm tin và lòng mến không thay đổi của Hội Thánh đối với mầu nhiệm Thánh Thể cao siêu; đồng thời, cũng chứng tỏ truyền thống liên tục và hoà hợp của Hội Thánh, mặc dù có thêm một ít điều mới mẻ.
Chứng tích về một đức tin không thay đổi
2. Bản chất hy tế của Thánh Lễ đã được Công Ðồng Triđentinô long trọng xác quyết[I] [1] , phù hợp với truyền thống của toàn thể Hội Thánh, nay lại được tuyên xưng trong Công Ðồng Vaticanô II, với những lời rất có ý nghĩa sau đây về Thánh Lễ: "Trong bữa tiệc ly, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập hy lễ tạ ơn, bằng Mình và Máu Người, để hy lễ thập giá còn tồn tại mãi qua các thời đại cho đến khi Người lại đến, và để trao cho Hội Thánh, hiền thê yêu quý của Người, nghi thức tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Người".[II] [2]
Ðiều Công Ðồng dạy trên đây vẫn không ngừng được diễn tả trong các công thức của Thánh Lễ. Thật vậy, sách Nghi Thức của Ðức Lêô có nói rõ: "Mỗi lần cử hành việc tưởng niệm hy lễ này là công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện"[III] [3] , giáo lý đó được khai triển cách thích hợp và kỹ càng trong các kinh Tạ Ơn, vì trong các kinh này, khi cử hành nghi thức tưởng niệm, vị tư tế nhân danh toàn dân hướng về Thiên Chúa, cảm tạ và dâng lên Ngài hy lễ sống động và thánh thiện, tức là lễ phẩm của Hội Thánh và là lễ vật, được hiến tế, để làm nguôi lòng Thiên Chúa như Ngài muốn[IV] [4] ; vị tư tế cũng cầu xin để Mình và Máu Chúa Kitô trở nên hy lễ đẹp lòng Chúa Cha và đem lại ơn cứu độ cho toàn thếgiới.[V] [5]
Như thế là trong Sách Lễ mới, qui luật cầu nguyện của Hội Thánh phù hợp với qui luật bất biến của đức tin. Qui luật này dạy chúng ta rằng: hy lễ thập giá và việc tái diễn hy lễ đó cách bí tích trong Thánh Lễ, mà Chúa Kitô đã thiết lập trong bữa tiệc ly và truyền cho các Tông Ðồ phải làm để tưởng nhớ đến Người, cả hai chỉ là một, ngoại trừ cách thức hiến dâng có khác. Và, do đó cùng một trật, Thánh Lễ là hy lễ ngợi khen, cảm tạ, đền tội và xin ơn.
3. Mầu nhiệm lạ lùng về sự hiện diện thực sự của Chúa dưới hình bánh và hình rượu, đã được xác nhận trong Công Ðồng Vaticanô II[VI] [6] , và trong các văn kiện khác của Huấn Quyền[VII] [7] , với cùng một ý nghĩa và tư tưởng như đã được Công Ðồng Triđentinô đặt thành tín điều[VIII] [8] . Trong khi cử hành Thánh Lễ, mầu nhiệm ấy được công bố, không những bằng lời truyền phép làm cho Chúa Kitô hiện diện do việc biến đổi bản thể, mà còn bằng tâm tình và thái độ hết sức cung kính, tôn thờ phải có trong phụng vụ Thánh Thể. Cũng vì lẽ ấy, ngày thứ Năm Tuần Thánh, trong lễ Chúa lập phép Thánh Thể và ngày lễ trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa, giáo dân được mời gọi phải đặc biệt kính thờ bí tích huyền diệu này.
4. Còn về bản chất chức tư tế thừa tác thuộc riêng linh mục, khi nhân danh Chúa Kitô mà hiến dâng hy lễ và chủ toạ cộng đồng dân thánh, bản chất ấy nổi bật trong chính nghi thức cử hành, do vị trí đặc biệt và do phận vụ của vị tư tế. Những đặc điểm của phận vụ này được công bố và giải thích rõ ràng sâu rộng trong lời tiền tụng Thánh Lễ làm phép dầu, ngày thứ Năm Tuần Thánh, ngày kỷ niệm thành lập chức tư tế. Thật vậy, trong lời tiền tụng nói trên, có đề cập rõ ràng đến việc trao ban chức tư tế do việc đặt tay, và quyền chức này được diễn tả với từng nghĩa vụ riêng biệt; quyền chức đó tiếp tục quyền chức của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế của Giao Ước mới.
5. Nhưng cùng với bản chất chức tư tế thừa tác, cũng được đưa ra ánh sáng một thực tại quan trọng khác, đó là chức tư tế vương giả của giáo dân: qua thừa tác vụ của các vị tư tế, hy lễ thiêng liêng của giáo dân được hoàn tất nhờ hợp nhất với hy lễ của Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất.[IX] [9] Thật vậy, việc cử hành Thánh Lễ là việc của toàn thể Hội Thánh, trong đó mỗi người chỉ làm và làm trọn công việc thuộc về mình, tùy theo cấp bậc của mình trong dân Thiên Chúa. Bởi thế, phải chú trọng hơn đến mấy khía cạnh của việc cử hành Thánh Lễ, mà trong những thế kỷ trước, người ta ít lưu tâm đến. Vì dân này là dân Thiên Chúa, được chuộc về bằng giá máu Ðức Kitô, được Chúa quy tụ, được Lời Người nuôi dưỡng; là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân hiến dâng hy lễ của Ðức Kitô, để trong Người mà tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ; và sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ thông phần Mình và Máu Ðức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ sự thông phần một cách có ý thức, linh động và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ không ngừng tiến triển trên con đường thánh thiện.[X] [10]
Công nhận truyền thống liên tục
6. Khi ban bố những chỉ thị nhằm duyệt lại nghi thức Thánh Lễ, Công Ðồng Vaticanô II, ngoài những chỉ thị khác, cũng truyền phải phục hồi một ít nghi thức, theo "Quy tắc cổ kính của các thánh Giáo Phụ",[XI] [11] nghĩa là đã dùng chính những lời của thánh Piô V ghi trong Tông Hiến "Quo primum", để công bố Sách Lễ của Công Ðồng Triđentinô năm 1570. Chính vì những lời đó trùng hợp, mà ta có thể nhận thấy lý do tại sao hai cuốn Sách Lễ Rôma, mặc dầu cách nhau bốn thế kỷ, vẫn bao gồm một truyền thống như nhau. Nếu cân nhắc các yếu tố nội tại của truyền thống này, chúng ta cũng thấy cuốn thứ hai bổ túc cho cuốn thứ nhất một cách khéo léo và tốt đẹp.
7. Ðã hẳn, vào thời buổi khó khăn, khi đức tin công giáo về bản chất hy lễ của Thánh Lễ, về chức tư tế thừa tác, về sự hiện diện thực sự và liên tục của Ðức Kitô dưới hình bánh và hình rượu gặp nguy hiểm, thì mối bận tâm đầu tiên của thánh Piô V là lo bảo tồn truyền thống còn mới, đang bị tấn công một cách bừa bãi, bằng cách thay đổi rất ít trong nghi thức thánh. Thật vậy, cuốn Sách Lễ năm 1570 chỉ hơi khác cuốn Sách Lễ in đầu tiên, vào năm 1474, và cuốn này lại trung thành lặp lại cuốn Sách Lễ thời Ðức Innôsenxiô III. Ngoài ra, các cổ bản thư viện Vaticanô, mặc dầu đã cung cấp một số dị bản tốt hơn, nhưng cũng không giúp cho việc nghiên cứu "các tác giả cổ xưa và có uy tín", đi xa hơn các bản văn chú giải phụng vụ thời trung cổ.
8. Trái lại, "Quy tắc cổ kính của các thánh giáo phụ" khi xưa đã được dùng làm căn bản cho các nhà tu chính có trách nhiệm soạn ra Sách Lễ Thánh Piô V, thì quy tắc ấy ngày nay được thêm phong phú, nhờ rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả. Vì sau khi Sách Nghi Thức của Thánh Grêgôriô được xuất bản lần đầu năm 1571, thì các Sách Nghi Thức Rôma cổ và Amrôsiô cổ cũng được xuất bản nhiều lần, có ghi chú các dị bản. Các sách phụng vụ cổ Tây Ban Nha và Galicăng cũng được xuất bản và đưa ra ánh sáng rất nhiều kinh nguyện có giá trị thiêng liêng không nhỏ, mà tới bấy giờ người ta chưa biết.
Cũng vậy, ngày nay, càng tìm ra được nhiều tài liệu phụng vụ, thì càng biết rõ hơn truyền thống của các thế kỷ đầu đã có, trước khi nghi thức Ðông phương và Tây phương thành hình.
Vả lại, sự tiến bộ trong việc nghiên cứu các thánh Giáo Phụ đã soi sáng khoa thần học về mầu nhiệm Thánh Thể, nhờ giáo lý của các Giáo Phụ kiệt xuất của Kitô giáo thời xưa như Thánh Irênê, Thánh Amrôxiô, Thánh Syrilô Giêrusalem, Thánh Gioan Kim Khẩu.
9. Bởi vậy, "Quy tắc cổ kính của các thánh giáo phụ" không những đòi hỏi phải bảo tồn những gì cha ông kế cận chúng ta đã truyền lại, mà còn phải tìm hiểu và cân nhắc kỹ lưỡng hơn tất cả quá khứ của Hội Thánh và tất cả các hình thức, mà đức tin duy nhất của Hội Thánh đã được tuyên xưng trong các nền văn hoá nhân bản và trần thế rất khác nhau, như trong các miền Sêmít, Hylạp, Latinh. Cái nhìn bao quát này giúp chúng ta nhận thấy rằng Chúa Thánh Thần đã ban cho dân Thiên Chúa sự trung tín lạ lùng, trong việc bảo tồn kho tàng đức tin bất biến, mặc dầu có nhiều kinh nguyện và nghi lễ rất khác nhau.
Thích ứng với những điều kiện mới
10. Như thế, Sách Lễ mới, khi nói lên quy luật cầu nguyện của Hội Thánh Rôma và bảo vệ kho tàng đức tin do các Công Ðồng gần đây truyền lại, thì Sách Lễ mới cũng đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong truyền thống phụng vụ.
Quả thế, khi các nghị phụ Công Ðồng Vaticanô II nhắc lại những xác quyết tín lý của Công Ðồng Triđentinô? các ngài đã lên tiếng trong một thời đại khác xa với trước; nên trong vấn đề mục vụ, các ngài có thể đưa ra những đề nghị và những lời khuyên mà trước đó bốn thế kỷ, người ta không thể tiên đoán được.
11. Công Ðồng Triđentinô đã nhận thấy ích lợi huấn giáo lớn lao trong việc cử hành Thánh Lễ, nhưng chưa rút ra được từ đó tất cả các hiệu quả thực tiễn. Thật vậy, có nhiều người đã xin Công Ðồng cho phép dùng tiếng bản xứ khi cử hành Thánh Lễ. Nhưng trước lời thỉnh cầu này, Công Ðồng đã xét tới hoàn cảnh đáng lưu tâm lúc đó, mà nghĩ rằng: nhiệm vụ của Công Ðồng là nhấn mạnh một lần nữa đến giáo lý truyền thống của Hội Thánh: hy lễ Thánh Thể, trước hết, là hành động của chính Chúa Kitô, cho nên hiệu năng riêng của Thánh Lễ không bị ảnh hưởng do cung cách tham dự của tín hữu. Bởi đó, Công Ðồng đã dùng những lời vừa mạnh mẽ vừa đắn đo như sau: "Mặc dầu Thánh Lễ có hàm chứa một nền giáo huấn phong phú cho giáo dân, nhưng các nghị phụ nhận thấy là cử hành Thánh Lễ khắp nơi bằng tiếng bản xứ, thì không có lợi".[XII] [12] Và Công Ðồng đã lên án kẻ nào chủ trương rằng: "Phải lên án nghi lễ Hội Thánh Rôma dạy đọc nhỏ tiếng phần Lễ Quy và lời truyền phép; hoặc, phải cử hành Thánh Lễ bằng tiếng bản xứ mà thôi".[XIII] [13] Dầu vậy, một đàng Công Ðồng cấm dùng tiếng bản xứ trong Thánh Lễ, một đàng lại truyền cho các mục tử phải dùng lời giáo huấn thích hợp để thay thế: "Ðể đoàn chiên Ðức Kitô khỏi phải đói khát". Công đồng truyền cho các mục tử và hết mọi người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn phải hoặc tự mình, hoặc nhờ người khác, năng trình bày khi cử hành Thánh Lễ một vài điều trong những điều đọc trong Thánh Lễ, và trong số các mầu nhiệm, phải diễn giảng một vài điều về mầu nhiệm hy lễ rất thánh này, nhất là trong các Chúa Nhật và lễ trọng".[XIV] [14]
12. Công Ðồng Vaticanô II, đã được triệu tập để làm cho Hội Thánh thích nghi với các nhu cầu của nhiệm vụ tông đồ trong thời đại này. Công Ðồng này, cũng như Công Ðồng Triđentinô? đã nghiên cứu sâu xa tính chất giáo huấn và mục vụ của phụng vụ thánh.[XV] [15] Vì không một người công giáo nào phủ nhận tính cách hợp pháp và hữu hiệu của nghi lễ thánh được cử hành bằng tiếng Latinh, nên Công Ðồng cũng có thể công nhận rằng: "Nhiều khi việc dùng tiếng bản xứ có thể rất hữu ích cho dân chúng", và đã cho phép dùng tiếng bản xứ.[XVI] [16] Quyết định trên đây đã được nồng nhiệt đón nhận khắp nơi, do đó kết quả là: dưới quyền lãnh đạo của các giám mục và của chính Tông Toà, mọi cử hành phụng vụ có giáo dân tham dự đều được phép cử hành bằng tiếng bản xứ, để mầu nhiệm cử hành được am hiểu đầy đủ hơn.
13. Tuy nhiên, vì việc dùng tiếng bản xứ trong phụng vụ thánh chỉ là một phương tiện dù rất quan trọng để trình bày rõ ràng hơn giáo huấn về mầu nhiệm chứa đựng trong việc cửhành, nên Công Ðồng Vaticanô II còn nhắn nhủ phải thực thi một số chỉ thị của Công Ðồng Triđentinô đã không được tuân giữ ở khắp nơi, như phải diễn giảng trong các ngày Chúa Nhật và lễ trọng,[XVII] [17] và được phép xen ít lời nhắc bảo vào giữa các nghi lễ thánh.[XVIII] [18]
Công Ðồng Vaticanô II đã khuyên "giáo dân tham dự Thánh Lễ cách hoàn hảo hơn bằng cách rước Mình Thánh Chúa, được truyền phép trong cùng một Thánh Lễ sau khi vị tư tế rước lễ rồi".[XIX] [19] Làm như vậy Công Ðồng đặc biệt thúc đẩy thực hiện một ước nguyện khác của các nghị phụ Công Ðồng Triđentinô là, để tham dự mầu nhiệm Thánh Thể cách đầy đủ hơn, thì "trong mỗi Thánh Lễ, các tín hữu tham dự phải thông hiệp, không những bằng tâm tình thiêng liêng, mà còn bằng việc lãnh bí tích Thánh Thể nữa".[XX] [20]
14. Cũng với một tinh thần và nhiệt tâm mục vụ đó, Công Ðồng Vaticanô II đã có một lý do mới, để có thể cân nhắc quyết định của Công Ðồng Triđentinô về việc rước lễ dưới hai hình. Thật vậy, ngày nay, không còn ai nghi ngờ những nguyên tắc giáo lý về hiệu lực rất đầy đủ của việc rước lễ dưới một hình bánh, nên Công Ðồng đã đôi khi cho phép được rước lễ dưới hai hình, nghĩa là nhờ một hình thức biểu lộ dấu bí tích rõ ràng hơn, giáo dân có cơ hội đặc biệt để hiểu sâu hơn mầu nhiệm họ tham dự.[XXI] [21]
15. Như vậy, trong khi vẫn trung thành với chức vụ của mình là thầy dạy chân lý, Hội Thánh gìn giữ những điều "cũ" tức là kho tàng truyền thống, cũng như chu toàn bổn phận xem xét và khôn ngoan sử dụng những điều "mới".
Quả thế, một phần Sách Lễ mới rõ ràng hướng các kinh nguyện của Hội Thánh về những nhu cầu của thời đại chúng ta; thuộc loại này đặc biệt là các lễ có nghi thức riêng và các lễ "tùy nhu cầu", trong đó, truyền thống và những yếu tố mới được kết hợp với nhau một cách hài hoà. Bởi đó, có nhiều kiểu nói vẫn còn giữ nguyên vẹn, rút ra từ truyền thống rất xa xưa của Hội Thánh, mà Sách Lễ Rôma, qua nhiều lần xuất bản đã cho ta thấy. Nhiều kiểu nói khác đã được thích nghi với các đòi hỏi và hoàn cảnh của thời nay. Ngược lại, có những kiểu nói khác, như các lời nguyện cầu cho Hội Thánh, cho giáo dân, cho việc thánh hoá lao động, cho cộng đồng các dân tộc, cho một số nhu cầu riêng của thời đại chúng ta, thì hoàn toàn được sáng tác theo tư tưởng, và nhiều khi theo chính những kiểu nói trong các văn kiện gần đây của Công Ðồng.
Cũng vì ý thức tình trạng mới của thế giới hôm nay, nên khi sử dụng những bản văn cổ truyền, xem ra ta không làm tổn thương gì đến kho tàng khả kính, nếu có thay đổi một vài câu, để lời văn thích hợp hơn với ngôn ngữ thần học ngày nay, và cũng thực sự phù hợp với hiện tình kỷ luật của Hội Thánh. Do đó đã thay đổi một số câu liên quan đến việc đánh giá và sử dụng của cải trần gian, và một số câu trình bày hình thức sám hối bề ngoài, thuộc những thời đại khác của Hội Thánh.
Bằng cách đó những quy tắc phụng vụ của Công Ðồng Triđentinô đã được bổ túc và kiện toàn trong nhiều điểm nhờ những quy tắc của Công Ðồng Vaticanô II. Công Ðồng này đã đưa tới đích những cố gắng nhằm đem giáo dân tới gần phụng vụ hơn. Những cố gắng ấy đã diễn ra qua bốn thế kỷ nay, đặc biệt trong thời đại gần đây, nhất là nhờ việc nghiên cứu phụng vụ do Thánh Piô X và các đấng kế vị cổ võ.
Ý Cầu Nguyện Tháng 11
“CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ MẤT CON"
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả những người cha mẹ phải than khóc vì cái chết của người con trai hay con gái, tìm thấy sự nâng đỡ của cộng đoàn và nhận được từ Thánh Thần an ủi sự bình an trong tâm hồn.
Giải Đáp Hôn Nhân & Gia Đình
Hạt Giống Đức Tin
Tài Liệu- Suy Tư
Đang Online
We have 121 guests and no members online
- 311/14/9 Đường 30/4, P. Phú Thọ,
Tp. Thủ Dầu Một, T. Bình Dương - This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
- 0274 3822 586
- mfvietnam.org