-
Ngày Đăng: 25 March 2021
-
Lượt xem: 8257
Article Index
Chương II: CƠ CẤU THÁNH LỄ, CÁC YẾU TỐ VÀ CÁC PHẦN CỦA THÁNH LỄ
I. CƠ CẤU TỔNG QUÁT CỦA THÁNH LỄ
II. NHỮNG YẾU TỐ KHÁC NHAU CỦA THÁNH LỄ
Ðọc và diễn giải Lời Chúa
Các lời nguyện và các phần khác dành cho vị tư tế
Những công thức khác dùng trong Thánh Lễ
Cách đọc các bản văn khác nhau
Tầm quan trọng của bài hát
Cử chỉ và điệu bộ
Thinh lặng
III. TỪNG PHẦN CỦA THÁNH LỄ
A. Nghi thức đầu lễ
Ca nhập lễ
Chào bàn thờ và cộng đoàn
Nghi thức sám hối
Lạy Chúa, xin thương xót
Kinh Vinh Danh
Lời nguyện nhập lễ
B. Phụng vụ Lời Chúa
Thinh lặng
Các bài đọc Thánh Kinh
Thánh vịnh đáp ca
Tung hô trước khi đọc Tin Mừng
Bài diễn giảng
Lời tuyên xưng đức tin
Lời nguyện cho mọi người
C. Phụng vụ Thánh Thể
Chuẩn bị lễ phẩm
Lời nguyện tiến lễ
Kinh Tạ Ơn
Nghi thức hiệp lễ
Kinh Lạy Cha
Nghi thức chúc bình an
Bẻ bánh
Hiệp lễ
D. Nghi thức kết thúc
I. CƠ CẤU TỔNG QUÁT CỦA THÁNH LỄ
27. Trong Thánh Lễ, tức là bữa tối của Chúa, dân Thiên Chúa được triệu tập thành một khối, có vị tư tế chủ toạ và đại diện Chúa Kitô, để cử hành nghi thức tưởng niệm Người, tức là hy lễ Tạ Ơn.[XXXVII] [37] Vì thế, Hội Thánh tập hợp tại một nơi, là thực hiện cách tuyệt vời lời hứa của Chúa Kitô: "Ở đâu có hai, ba người hội họp nhân danh Thầy, thì có Thầy ởgiữa họ" (Mt 10,20). Cử hành Thánh Lễ là làm cho hy lễ thập giá tồn tại mãi.[XXXVIII] [38] Trong việc cử hành này, Chúa Kitô thực sự hiện diện trong chính cộng đoàn hội họp nhân danh Người, trong thừa tác viên, trong Lời Người và chính bản thể Người thực sự hiện diện liên tục dưới hình bánh và hình rượu.[XXXIX] [39]
28. Có thể nói Thánh Lễ gồm hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể; cả hai phần liên kết chặt chẻ với nhau đến nỗi làm nên một hành vi phụng tự duy nhất.[xl] [40]Quả thật trong Thánh Lễ có dọn sẵn bàn tiệc Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, để các tín hữu được giáo huấn và bổ dưỡng.[xli] [41] Lại có những nghi thức mở đầu và kết thúc việc cử hành.
II. NHỮNG YẾU TỐ KHÁC NHAU CỦA THÁNH LỄ
Ðọc và diễn giải Lời Chúa
29. Qua lời Thánh Kinh đọc trong Hội Thánh, chính Thiên Chúa nói với dân Ngài và Ðức Kitô, hiện diện trong lời của mình, loan báo Tin Mừng.
Bởi đó, mọi người phải kính cẩn lắng nghe các bài đọc Lời Chúa, một yếu tố rất quan trọng trong phụng vụ. Mặc dầu Lời Chúa trong các bài đọc Thánh Kinh hướng về mọi người,thuộc mọi thời đại, và họ có thể hiểu được, nhưng Lời Chúa sẽ thêm hiệu lực, nhờ việc trình bày sống động, tức là nhờ bài diễn giảng, là thành phần của hành động phụng vụ.[xlii][42]
Các lời nguyện và các phần khác dành cho vị tư tế
30. Trong các phần dành cho vị tư tế, thì trên hết là kinh Tạ Ơn, điểm cao nhất của toàn thể việc cử hành. Kế đến là các lời nguyện, tức là lời nguyện nhập lễ, lời nguyện tiến lễ và lời nguyện hiệp lễ, vị tư tế, đại diện Chúa Kitô, chủ toạ cộng đoàn, nhân danh toàn thể dân thánh và mọi người hiện diện, mà dâng các kinh nguyện này lên Thiên Chúa.[xliii] [43] Vì thế, gọi các kinh này là "lời nguyện của vị chủ toạ" thì thật đúng.
31. Vị tư tế, trong chức vụ chủ toạ cộng đoàn được triệu tập: nói ít lời nhắn nhủ như đã trù liệu trong chính nghi thức. Chỗ nào luật chữ đỏ qui định, chủ tế được phép thích nghi các lời nhắn nhủ ấy để đáp ứng với trình độ của người tham dự. Tuy vậy, vị tư tế phải chú tâm luôn luôn phục vụ ý hướng của lời nhắn nhủ, được đề nghị trong sách phụng vụ và chỉ nên nói vắn tắt. Cũng dành cho vị tư tế chủ toạ việc loan truyền Lời Chúa và ban phép lành cuối lễ. Ngoài ra, vị tư tế cũng được phép nói vắn tắt mấy lời trước khi cử hành để hướng dẫn giáo dân vào Thánh Lễ ngày hôm đó, sau lời chào đầu lễ và trước nghi thức thống hối, trước các bài đọc để hướng dẫn vào phụng vụ Lời Chúa, trước lời tiền tụng để hướng dẫn vào kinh Tạ Ơn, nhưng không bao giờ vào giữa kinh này, và trước khi giải tán giáo dân để kết thúc toàn bộ việc cử hành.
32. Tính chất các phần dành cho vị chủ toạ buộc vị tư tế phải đọc rõ ràng, lớn tiếng, và buộc mọi người phải chăm chú lắng nghe.[xliv] [44] Vì thế, khi vị tư tế đọc các phần đó, không ai được đọc hay hát kinh nào khác, cũng không được đánh đàn hay chơi nhạc cụ nào khác.
33. Vị tư tế, với tư cách là chủ toạ, đọc các kinh nguyện nhân danh Hội Thánh và cộng đoàn tập họp. Tuy nhiên, đôi khi ngài cầu nguyện nhân danh chính mình, để chu toàn thừa tác vụ với một tâm hồn chăm chú và đạo đức hơn. Vị tư tế đọc thầm các kinh này, vào những lúc trước khi đọc Tin Mừng, khi chuẩn bị lễ phẩm, cũng như trước và sau khi ngài rước lễ.
Những công thức khác dùng trong Thánh Lễ
34. Tự bản chất, việc cử hành Thánh Lễ có tính cách cộng đoàn,[xlv] [45] cho nên những lời đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn tín hữu, cũng như các lời tung hô, đều có giá trị lớn,[xlvi] [46] vì đó không phải chỉ là những dấu bề ngoài của một việc cử hành chung, mà còn giúp và tạo nên sự hiệp thông giữa vị tư tế và giáo dân.
35. Các câu tung hô và các câu tín hữu đáp lại lời chào và lời cầu nguyện của vị tư tế, tạo nên một mức độ tham dự tích cực. Mức độ tham dự này phải được cộng đoàn tín hữu thực hiện trong mọi hình thức Thánh Lễ, để hành động của toàn thể cộng đoàn được biểu lộ rõ ràng và được khuyến khích.[xlvii] [47]
36. Các phần khác cũng rất hữu ích để biểu lộ và khuyến khích việc tham dự tích cực của tín hữu, đó là những phần của toàn thể cộng đoàn, đặc biệt là nghi thức sám hối, lời tuyên xưng đức tin, lời nguyện cho mọi người và kinh Lạy Cha.
37. Sau hết, trong các công thức khác:
a. Có những công thức tạo nên một nghi thức hay một hành vi biệt lập, như kinh Vinh Danh, thánh vịnh đáp ca, Alêluia và lời tung hô Tin Mừng, bài ca Thánh Thánh Thánh, lời tung hô sau truyền phép, bài hát sau hiệp lễ.
b. Có những công thức khác kèm theo một nghi thức, như ca nhập lễ, ca tiến lễ, ca bẻ bánh (lạy Chiên Thiên Chúa) và ca hiệp lễ.
Cách đọc các bản văn khác nhau
38. Khi vị tư tế, người giúp lễ hay mọi người phải đọc các bản văn cách rõ ràng và lớn tiếng, thì phải liệu sao cho giọng nói phù hợp với từng loại bản văn, tùy như đó là bài đọc, lời nguyện, lời nhắn nhủ, lời tung hô hay bài hát, đồng thời cũng phải phù hợp với hình thức cử hành và tính cách long trọng của buổi lễ. Ngoài ra, còn phải để ý đến tính chất của các ngôn ngữ khác nhau và cách cảm nghĩ của mỗi dân tộc.
Vậy trong các nghi tiết và các quy tắc sau đây, các từ "nói" hay "đọc" phải hiểu cả về hát lẫn đọc, miễn là giữ các nguyên tắc nêu trên.
Tầm quan trọng của bài hát
39. Thánh Tông Ðồ khuyên kitô hữu, lúc hội họp trông đợi Chúa đến, hãy cùng nhau hát những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thánh Thần linh hứng (x. Cl 3,16). Quả vậy, hát là dấu chỉ niềm vui trong tâm hồn (x. Cv 2,46). Bởi đó, thánh Augúttinô nói đúng: "Người nào yêu thì hát".[xlviii] [48] Và ngay từ ngàn xưa, câu: "Ai hát hay là cầu nguyện gấp đôi" đã trở thành ngạn ngữ.
40. Vậy việc sử dụng ca hát trong cử hành Thánh Lễ phải là điều quan trọng, sau khi đã lưu ý đến cách cảm nghĩ của mỗi dân tộc và khả năng của mỗi cộng đoàn. Dù không luôn luôn cần phải hát tất cả các bản văn tự chúng đã được trù liệu để hát, chẳng hạn trong các Thánh Lễ ngày thường, nhưng trong các cử hành vào Chúa Nhật và lễ trọng thì lo sao đừng thiếu tiếng hát của các thừa tác viên và dân chúng.
Nhưng khi chọn lựa những phần để hát thực sự thì hãy dành ưu tiên cho những phần quan trọng hơn, nhất là những phần do vị tư tế hay phó tế hay người giúp lễ hát, giáo dân thưa,hoặc những phần mà cả vị tư tế lẫn giáo dân cùng hát.[xlix] [49]
41. Chiếm vị trí hàng đầu là hát grêgôriô, như là đặc điểm của phụng vụ Rôma. Mọi loại thánh nhạc khác, nhất là đa giọng, cũng được phép sử dụng nếu chúng đáp ứng với tinh thần của hành vi phụng vụ và trợ giúp sự tham dự của mọi tín hữu.[l] [50] Vì giáo dân thuộc nhiều quốc tịch mỗi ngày một năng hội họp với nhau hơn, nên ước gì họ có thể cùng nhau hát bằng tiếng Latinh, ít là một vài kinh trong phần Thường Lễ, nhất là kinh Tin Kính và kinh Lạy Cha, với những cung điệu dễ hát.[li] [51]
Cử chỉ và điệu bộ
42. Cử chỉ và điệu bộ thân thể của vị tư tế, phó tế, các thừa tác viên, cũng như của giáo dân nhằm làm cho toàn bộ cuộc cử hành toát ra vẻ đẹp, sự thanh cao và đơn sơ, làm cho ý nghĩa thật sự và đầy đủ của các phần khác nhau được nhận thức và làm cho sự tham dự của mọi người được khuyến khích.[lii] [52] Do đó, phải chú ý đến những gì được qui định bởi luật phụng vụ và thực hành truyền thống của Nghi Lễ Rôma, và những gì mang lại lợi ích thiêng liêng chung cho Dân Chúa hơn là ý thích riêng hay tùy tiện.
Ðiệu bộ chung của thân thể mà mọi người tham dự phải giữ là dấu chỉ tính tập thể và hiệp nhất của các phần tử cộng đoàn kitô tập họp cử hành Phụng Vụ thánh: nó biểu lộ và khíchlệ tâm hồn cũng như tình cảm của các người tham dự.[liii] [53]
43. Tín hữu đứng: từ đầu ca nhập lễ, hoặc khi vị tư tế tiến tới bàn thờ, cho đến hết lời nguyện nhập lễ; khi hát Alêluia trước Tin Mừng; khi công bố Tin Mừng; khi đọc kinh Tin Kính và lời nguyện cho mọi người; từ lời mời Anh em hãy cầu nguyện trước lời nguyện tiến lễ cho đến hết lễ, trừ những gì sẽ nói sau.
Còn ngồi: khi đọc các bài đọc và thánh vịnh đáp ca trước Tin Mừng, khi nghe diễn giảng và khi sửa soạn lễ phẩm cho phần dâng lễ; và tùy nghi khi giữ thinh lặng thánh sau hiệp lễ.
Sẽ quỳ, khi truyền phép Mình Thánh, Máu Thánh, trừ khi vì lý do sức khoẻ, vì nơi chật hẹp, hoặc vì quá đông người dự lễ, hay vì những lý do chính đáng khác, không thể quỳ được. Những người không quì khi truyền phép thì phải cúi mình sâu khi vị tư tế quì gối sau truyền phép.
Tuy nhiên, Hội Ðồng Giám Mục được quyền thích nghi các cử chỉ và điệu bộ ghi trong phần Thường Lễ của Sách Lễ Rôma, sao cho phù hợp với cách cảm nghĩ của mỗi dân tộc.[liv][54] Nhưng cũng phải liệu sao cho phù hợp với ý nghĩa và tính chất của từng phần Thánh Lễ. Ở đâu giáo dân có thói quen quỳ suốt sau câu tung hô Thánh Thánh Thánh cho đến hết Kinh Nguyện Thánh Thể, thì đó là điều đáng khen nên duy trì.
Ðể có sự đồng nhất về cử chỉ và điệu bộ trong cùng một cử hành, các tín hữu phải tuân theo lời hướng dẫn của phó tế hay thừa tác viên giáo dân, hay vị tư tế theo như các sách phụng vụ qui định.
44. Trong các cử chỉ cũng phải kể đến các hành động và đi rước, như việc vị tư tế cùng với phó tế và các thừa tác viên tiến tới bàn thờ, việc phó tế cầm sách Tin Mừng đi đến giảng đài trước khi công bố Tin Mừng, việc giáo dân tiến dâng lễ phẩm và tiến lên hiệp lễ. Nên liệu sao cho các hành động và đi rước đó diễn ra cách đẹp đẽ, kèm theo những bài hát xứng hợp như quy luật đã ấn định cho từng việc.
Thinh lặng
45. Sự thinh lặng thánh, kể như thành phần của việc cử hành Thánh Lễ, cũng phải được tuân giữ đúng lúc.[lv] [55] Bản chất của sự thinh lặng tùy thuộc vào lúc phải giữ trong Thánh Lễ. Thật vậy, trong nghi thức sám hối và sau lời mời cầu nguyện, mỗi người hồi tâm lại; sau bài đọc và bài diễn giảng, mỗi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã nghe; còn sau khi hiệp lễ thì ca ngợi và cầu xin Chúa trong lòng.
Trước khi cử hành, rất nên giữ thinh lặng trong thánh đường, trong phòng thánh và những nơi kế cận để mọi người dọn mình cách sốt sắng tham dự các lễ nghi thánh.
III. TỪNG PHẦN CỦA THÁNH LỄ
A. Nghi thức đầu lễ
46. Các nghi thức trước phụng vụ Lời Chúa, tức là ca nhập lễ, lời chào, nghi thức sám hối, kinh Lạy Chúa, xin thương xót, kinh Vinh Danh và lời nguyện nhập lễ đều có tính cách mởđầu, dẫn nhập và chuẩn bị.
Mục đích các nghi thức này là giúp cho các tín hữu đã tập họp được hiệp thông với nhau và chuẩn bị tâm hồn để nghe Lời Chúa cho nghiêm chỉnh và để cử hành Thánh Lễ cho xứng đáng.
Trong vài cử hành, được nối kết với Thánh Lễ theo qui tắc của các sách phụng vụ, những nghi thức đầu lễ được bỏ hay được thực hiện một cách đặc biệt.
Ca nhập lễ
47. Khi dân chúng đã tập họp, và đang khi vị tư tế và các người giúp lễ tiến vào, thì bắt đầu hát ca nhập lễ. Bài ca này có mục đích mở đầu việc cử hành Thánh Lễ, giúp giáo dân thêm hiệp nhất, hướng tâm hồn họ vào mầu nhiệm mùa phụng vụ hay ngày lễ và đi kèm với cuộc rước của vị tư tế và các người giúp lễ.
48. Ca nhập lễ được hát như sau: hoặc luân phiên giữa ca đoàn và dân chúng, hoặc luân phiên giữa một ca viên và dân chúng, hoặc tất cả do dân chúng hát, hay do một mình ca đoàn hát mà thôi. Có thể dùng điệp ca cùng với thánh vịnh, ghi trong sách Graduale Romanum hay trong sách Graduale simplex; hoặc dùng bài hát nào khác phù hợp với cử hành phụng vụ, với tính chất của ngày lễ, hay mùa phụng vụ. Bản văn bài hát này phải được Hội Ðồng Giám Mục chuẩn nhận.[lvi] [56]
Nếu không hát ca nhập lễ, thì giáo dân, hoặc một vài người giáo dân hoặc một độc viên, đọc bài ca nhập lễ ghi trong Sách Lễ. Nếu không có ai đọc, thì chính vị tư tế đọc, và ngài có thể thích nghi nó theo cách lời khuyên nhủ khởi đầu (x. n. 31).
Chào bàn thờ và cộng đoàn
49. Khi tới cung thánh, vị tư tế, phó tế và các người giúp lễ cúi sâu chào bàn thờ.
Sau đó, để tỏ lòng tôn kính, vị tư tế và thầy phó tế hôn bàn thờ; rồi vị tư tế tuỳ nghi xông hương thánh giá và bàn thờ.
50. Sau ca nhập lễ, vị tư tế, đứng tại ghế, cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu thánh giá. Tiếp đó, dùng lời chào mà nói cho cộng đoàn biết là có Chúa hiện diện. Lời chào của vị tư tếvà câu đáp của giáo dân nói lên mầu nhiệm của Hội Thánh đã được quy tụ lại.
Sau khi chào giáo dân xong, vị tư tế hay phó tế, hay một thừa tác viên khác có thể nói ít lời dẫn nhập tín hữu vào Thánh Lễ hôm ấy.
Nghi thức sám hối
51. Tiếp theo, vị tư tế mời?mọi người sám hối. Sau một chút thinh lặng, tất cả cộng đoàn đọc công thức thú tội chung và vị tư tế đọc lời xá giải để kết thúc. Lời xá giải này không có hiệu quả của bí tích thống hối.
Vào ngày Chúa Nhật, nhất là trong Mùa Phục Sinh, thay vì nghi thức thống hối thường lệ, thỉnh thoảng nên làm phép và rảy nước thánh để nhớ lại phép rửa.[lvii] [57]
Lạy Chúa, xin thương xót
52. Sau nghi thức sám hối, là luôn luôn đến kinh "Lạy Chúa, xin thương xót", trừ khi đã dùng kinh này trong nghi thức sám hối. Vì là bài hát giáo dân dùng để tung hô Chúa và kêu cầu lòng thương xót của Người, bài này thường được mọi người hát, nghĩa là dân chúng, ca đoàn hay xướng ca viên, đều góp phần vào đó.
Thường mỗi lời tung hô được hát hai lần, nhưng vì đặc tính của các ngôn ngữ khác nhau, vì nghệ thuật âm nhạc, hay vì hoàn cảnh, cũng có thể hát nhiều lần. Khi kinh "Lạy Chúa, xin thương xót" được dùng như là phần của nghi thức thống hối, thì trước nó có những câu tung hô riêng.
Kinh Vinh Danh
53. Kinh Vinh Danh là một thánh thi rất cổ kính, mà Hội Thánh, được đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần, dùng để tôn vinh Chúa Cha và cầu khẩn Chiên Con. Không được thay đổi bản văn của kinh này bằng một bản văn khác. Vị tư tế hay, tùy nghi, một ca viên hay ca đoàn xướng lên, rồi mọi người cùng hát chung, hay luân phiên giữa giáo dân và ca đoàn, hay chỉca đoàn. Nếu không hát thì phải đọc, hoặc mọi người đọc chung, hoặc chia hai bè đối đáp.
Kinh này được hát hay đọc trong các Chúa Nhật ngoài Mùa Vọng và Mùa Chay, trong các lễ trọng và lễ kính, và trong các dịp lễ khá long trọng.
Lời nguyện nhập lễ
54. Tiếp đến, vị tư tế mời giáo dân cầu nguyện; và mọi người cùng vị tư tế thinh lặng trong giây lát, để ý thức mình đang ở trước thánh nhan Chúa và có thể gợi lên trong tâm hồn các ước nguyện của mình. Rồi vị tư tế đọc lời nguyện, thường được gọi là lời "tổng nguyện" diễn tả đặc tính của buổi lễ. Theo truyền thống cổ kính của Hội Thánh, lời nguyện thường hướng về Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần[lviii] [58] và câu kết mang nét Ba Ngôi, nghĩa là câu kết dài:
Nếu lời nguyện hướng về Chúa Cha, thì đọc "Nhờ Ðức Giêsu Kitô, Con Cha và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời";
Nếu lời nguyện hướng về Chúa Cha, nhưng câu cuối có nhắc đến Chúa Con, thì đọc: "Người hằng sống hằng trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời";
Nếu hướng về Chúa Con, thì đọc: "Người hằng sống hằng trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời".
Giáo dân chung lòng hợp ý với lời nguyện, tung hô "Amen", để làm cho lời nguyện đó thành của mình.
Trong Thánh Lễ luôn luôn chỉ đọc một lời nguyện nhập lễ.
B. Phụng vụ Lời Chúa
55. Các bài đọc lấy từ Thánh Kinh, cùng với các bài hát xen giữa, tạo nên phần chính của phụng vụ Lời Chúa; còn bài diễn giảng, kinh Tin Kính và lời nguyện cho mọi người, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, khai triển và kết thúc phần này. Qua các bài đọc, được bài diễn giảng giải thích, Thiên Chúa nói với dân Ngài,[lix] [59] Ngài mạc khải mầu nhiệm cứu chuộc vàơn cứu độ, đồng thời cung cấp lương thực thiêng liêng; chính Ðức Kitô dùng lời của mình mà hiện diện giữa các tín hữu.[lx] [60] Nhờ thinh lặng và các bài hát, dân chúng làm cho Lời Chúa thành của mình; nhờ lời tuyên xưng đức tin, họ gắn bó với Lời Chúa; và khi được Lời Chúa nuôi dưỡng, nhờ lời nguyện cho mọi người, họ cầu xin cho các nhu cầu của Hội Thánh và cho cả thế giới được cứu độ.
Thinh lặng
56. Phải cử hành Phụng vụ Lời Chúa thế nào tạo thuận lợi cho việc suy gẫm, vì thế tuyệt đối tránh mọi hình thức vội vã, ngăn trở việc hồi tâm. Nên có những giây phút thinh lặng ngắn, tùy theo cộng đoàn tụ họp, để nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được tiếp nhận trong tâm hồn và lời đáp trả qua kinh nguyện được chuẩn bị. Những lúc nên giữthinh lặng là sau bài đọc thứ nhất và thứ hai, cũng như sau bài giảng.
Các bài đọc Thánh Kinh
57. Qua các bài đọc, bàn tiệc Lời Chúa được dọn ra cho các tín hữu và các kho tàng Thánh Kinh được mở ra cho họ.[lxi] [61] Các bài đọc Thánh Kinh được sắp xếp để làm sáng tỏtính thống nhất của hai Giao Ước và lịch sử cứu độ. Do đó, không được phép thay thế các bài đọc và thánh vịnh đáp ca chứa đựng Lời Chúa bằng các bản văn ngoài Thánh Kinh.[lxii][62]
58. Trong cử hành Thánh Lễ có giáo dân, các bài đọc luôn luôn được công bố tại giảng đài.
59. Theo truyền thống, việc đọc các bài đọc không phải là nhiệm vụ của vị chủ toạ, mà là của người giúp. Ðộc viên đọc các bài đọc. Thầy phó tế, hay nếu không có phó tế, thì một vịtư tế khác đọc Tin Mừng. Nhưng nếu không có thầy phó tế hay tư tế khác, thì vị tư tế chủ toạ đọc Tin Mừng. Còn nếu không có độc viên xứng đáng nào, thì vị tư tế chủ toạ đọc các bài đọc.
Sau mỗi bài, người đọc xướng câu tung hô, và giáo dân tập họp đáp lại để tôn vinh Lời Chúa được tiếp nhận bằng đức tin và lòng tri ân.
60. Bài Tin Mừng là cao điểm của phụng vụ Lời Chúa. Chính phụng vụ dạy ta phải hết lòng tôn kính bài đọc Tin Mừng, vì phụng vụ đặc biệt đề cao bài Tin Mừng hơn các bài đọc khác, phần thì về phía thừa tác viên được cử ra đọc và dọn mình đọc nhờ phép lành hay lời cầu nguyện, phần thì, về phía giáo dân, họ tung hô để nhìn nhận và tuyên xưng Ðức Kitô đang hiện diện và nói với họ, và họ đứng để nghe Tin Mừng, phần thì do những dấu tỏ lòng trọng kính đối với sách Tin Mừng.
Thánh vịnh đáp ca
61. Sau bài đọc thứ nhất là thánh vịnh đáp ca; bài ca này là thành phần trọn vẹn của phụng vụ Lời Chúa, và có tầm quan trọng lớn về phụng vụ và mục vụ, vì giúp ích cho việc suy gẫm Lời Chúa.
Thánh vịnh đáp ca liên quan trực tiếp đến mỗi bài đọc và thường lấy ở sách Bài Ðọc.
Thánh vịnh đáp ca nên được hát, ít là phần đáp của giáo dân. Do đó, người hát thánh vịnh hát tại giảng đài, hay tại một nơi thuận tiện, đang khi toàn thể cộng đoàn ngồi nghe và thường thường lại còn tham dự bằng những câu đáp, trừ khi thánh vịnh được hát liên tục, không có câu đáp. Tuy nhiên, để dân chúng có thể hát thánh vịnh đáp ca cách dễ dàng hơn, một số bản văn đáp ca và thánh vịnh đã được lựa chọn cho từng mùa trong năm, hoặc cho từng loại thánh nhân, để mỗi khi hát thánh vịnh, có thể dùng các bản văn này thay cho bản văn hợp với bài đọc liên hệ. Nếu không hát thánh vịnh, thì đọc theo cách thích hợp giúp suy gẫm Lời Chúa.
Thay vì thánh vịnh ghi trong sách Bài Ðọc, còn có thể hát ca tiến cấp lấy ở sách Graduale Romanum, hay thánh vịnh đáp ca, hoặc tung hô Alêluia lấy ở sách Graduale simplex, như thấy có ghi trong các sách đó.
Tung hô trước khi đọc Tin Mừng
62. Sau bài đọc đi liền trước bài Tin Mừng thì hát Alêluia, hay bài hát khác, theo luật chữ đỏ, như mùa phụng vụ đòi hỏi. Lời tung hô này được thực hiện ở tư thế đứng, vì cộng đoàn tín hữu chào đón Chúa sẽ nói với mình trong Tin Mừng và biểu lộ đức tin bằng bài ca. Mọi người đứng cùng hát, được ca đoàn hoặc một ca viên khởi xướng, hoặc lặp lại câu ca đoàn hay một ca viên đã hát.
a. Alêluia được hát trong các mùa ngoài Mùa Chay. Câu thì lấy ở sách Bài Ðọc, hay sách Graduale.
b. Trong Mùa Chay, thì thay vì Alêluia, hát câu trước Tin Mừng ghi trong sách Bài Ðọc. Cũng có thể hát một thánh vịnh khác cũng gọi là ca liên tục (tractus), như có trong sách hátGraduale.
63. Khi chỉ có một bài đọc trước Tin Mừng thì:
a. Trong mùa phải hát Alêluia, có thể hát hoặc bài thánh vịnh có chữ?Alêluia, hoặc thánh vịnh và Alêluia với câu tung hô.
b. Trong mùa không phải đọc Alêluia, có thể hát thánh vịnh với câu trước Tin Mừng, hoặc chỉ thánh vịnh thôi;
c. Alêluia hay câu trước Tin Mừng, nếu không hát thì có thể bỏ.
64. Ca tiếp liên, ngoài lễ Phục Sinh và lễ Hiện Xuống thì được tùy ý, và được hát sau Alêluia.
Bài diễn giảng
65. Bài diễn giảng là thành phần của phụng vụ và rất được khuyến khích,[lxiii] [63] vì cần thiết để nuôi dưỡng đời sống kitô hữu. Bài này phải diễn giải hoặc một khía cạnh nào của các bài đọc Thánh Kinh, hoặc một bản văn khác thuộc phần Thường Lễ hay phần Riêng của Thánh Lễ ngày đó, đồng thời lưu ý đến mầu nhiệm được kính nhớ, hay nhu cầu riêng biệt của thính giả.[lxiv] [64]
66. Người diễn giảng thông thường là chính vị chủ tế hay một trong các vị đồng tế được vị chủ tế nhờ, hay đôi khi, tuỳ nghi, là phó tế, nhưng không bao giờ là giáo dân.[lxv] [65]Trong những trường hợp đặc biệt và có lý do chính đáng, một Giám Mục hay một linh mục hiện diện trong buổi cử hành mà không đồng tế có thể đảm trách việc giảng.
Phải diễn giảng và không được bỏ, trừ khi có lý do quan trọng, vào các ngày Chúa Nhật và lễ buộc trong mọi Thánh Lễ cử hành có đông giáo dân tham dự; còn các ngày khác cũng nên diễn giảng, nhất là các ngày trong tuần Mùa Vọng, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, và trong các lễ khác cũng như các dịp có khá đông giáo dân tập họp ở nhà thờ.[lxvi] [66]
Sau bài giảng, nên giữ ít phút thinh lặng.
Lời tuyên xưng đức tin
67. Kinh Tin Kính, cũng gọi là lời tuyên xưng đức tin, nhằm làm cho giáo dân tập họp đáp lại Lời Chúa, được loan báo trong các bài đọc và giải thích trong bài diễn giảng, đồng thời khi đọc qui luật đức tin theo công thức chấp thuận dùng trong phụng vụ, họ nhớ lại và tuyên xưng những mầu nhiệm chính của đức tin trước khi bắt đầu cử hành Thánh Thể.
68. Kinh Tin Kính phải do vị tư tế hát hay đọc chung với giáo dân vào các ngày Chúa Nhật và lễ trọng; cũng có thể đọc trong những lễ đặc biệt khá trọng thể.
Nếu hát, thì vị tư tế hay, tùy nghi, một ca viên, hay ca đoàn xướng, rồi mọi người cùng hát tiếp hay dân chúng và ca đoàn hát luân phiên.
Nếu không hát, thì mọi người cùng đọc hay chia làm hai đối đáp nhau.
Lời nguyện cho mọi người
69. Trong lời nguyện cho mọi người, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, chính dân Chúa, sau khi tiếp nhận trong đức tin, đáp lại Lời Chúa và thực thi chức tư tế do phép rửa của mình mà cầu cho hết mọi người. Lời nguyện này thường nên thực hiện trong các Thánh Lễ có giáo dân tham dự, để họ cầu cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những người đang gặp đủ thứ khó khăn, cho hết mọi người và cho toàn thế giới được ơn cứu độ.[lxvii] [67]
70. Thứ tự những ý nguyện thường là:
a. Cho các nhu cầu của Hội Thánh;
b. Cho các người trong chính quyền và cho toàn thế giới được an bình;
c. Cho các người đang gặp bất cứ khó khăn nào;
d. Cho cộng đoàn địa phương.
Nhưng trong một buổi lễ cử hành đặc biệt nào đó, như là Thêm Sức, Hôn Phối, An Táng, thì thứ tự ý nguyện có thể dành ưu tiên cho trường hợp đặc biệt đó.
71. Chính vị chủ tế điều khiển việc cầu nguyện từ ghế. Ngài vắn tắt mời tín hữu cầu nguyện và đọc lời nguyện để kết thúc. Các ý nguyện nêu ra cần phải chừng mực, được soạn thảo với sự tự do khôn ngoan và ngắn gọn, diễn tả lời nguyện của toàn thể cộng đoàn.
Thầy phó tế, hoặc một ca viên, hay độc viên hay một giáo dân khác xướng các ý nguyện từ giảng đài hay một nơi nào khác xứng hợp.[lxviii] [68]
Còn toàn thể cộng đoàn đứng biểu lộ lời nguyện của mình, hoặc bằng những lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng cách cầu nguyện trong thinh lặng.
C. Phụng vụ Thánh Thể
72. Trong Bữa Tối sau hết, Ðức Kitô đã thiết lập hy lễ và bữa tiệc Vượt Qua, nhờ đó hy lễ thập giá được luôn luôn hiện diện trong Hội Thánh khi vị tư tế, đại diện Ðức Kitô là Chúa, cử hành cùng một việc chính Người đã làm và trao cho các môn đệ phải làm, để tưởng nhớ đến Người.[lxix] [69]
Quả thế, Ðức Kitô đã cầm lấy bánh và chén, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Các con hãy cầm lấy, hãy ăn, hãy uống; đây là Mình Thầy, đây là chén Máu Thầy. Các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy. Do đó, Hội Thánh sắp xếp toàn bộ cử hành Phụng Vụ Thánh Thể và các phần theo các lời nói và hành vi của Chúa Kitô, nghĩa là:
1. Trong phần chuẩn bị lễ phẩm, bánh, rượu và nước được đem tới bàn thờ, tức là những gì Ðức Kitô đã cầm lấy trong tay.
2. Trong kinh Tạ ơn, thì tạ ơn Thiên Chúa về tất cả công trình cứu chuộc và lễ phẩm trở nên Mình và Máu Ðức Kitô.
3. Qua việc bẻ bánh và rước lễ các tín hữu, tuy nhiều, đều lãnh nhận Mình và Máu Chúa từ một tấm bánh cùng một cách như các Tông Ðồ đã lãnh từ tay của chính Ðức Kitô.
Chuẩn bị lễ phẩm
73. Bắt đầu phụng vụ Thánh Thể, thì đưa lên bàn thờ các lễ phẩm sẽ trở thành Mình và Máu Ðức Kitô.
Trước hết để sửa soạn bàn thờ, cũng gọi là bàn tiệc của Chúa, là trung tâm điểm của toàn bộ phụng vụ Thánh Thể,[lxx] [70] thì đặt trên bàn thờ khăn thánh, khăn lau chén, Sách Lễ và chén lễ, trừ khi chén lễ được dọn ở bàn phụ.
Tiếp đến là đem lễ phẩm lên: nên để giáo dân đem bánh và rượu, vị tư tế hay thầy phó tế nhận tại một nơi thuận tiện, và đưa lên bàn thờ. Mặc dầu ngày nay giáo dân không còn mang bánh rượu của mình đến để dùng vào việc phụng vụ như xưa, nhưng nghi thức dâng lễ phẩm vẫn giữ hiệu lực và ý nghĩa thiêng liêng.
Cũng được nhận tiền bạc hay các phẩm vật khác, do tín hữu mang đến hay được quyên ngay trong nhà thờ để giúp người nghèo hay nhà thờ; những phẩm vật này được đặt ở một nơi xứng hợp ngoài bàn thờ.
74. Khi rước lễ phẩm lên, thì hát ca tiến lễ (x. n. 37, b) và kéo dài bài hát ít là cho tới khi đặt lễ phẩm trên bàn thờ. Quy luật về cách hát ca tiến lễ cũng giống như cách hát ca nhập lễ (x. n. 48). Bài hát có thể luôn luôn đi theo nghi thức tiến dâng.
75. Bánh và rượu được linh mục đặt trên bàn thờ cùng với các công thức ấn định. Vị tư tế có thể xông hương lễ phẩm đặt trên bàn thờ, sau đó thánh giá và chính bàn thờ, để nói lên rằng lễ phẩm và lời nguyện của Hội Thánh ví như hương trầm bay lên trước thánh nhan Chúa. Sau đó, vị tư tế, vì thừa tác vụ thánh, và giáo dân, vì phẩm giá phép rửa, có thểđược thầy phó tế hay người giúp lễ nào khác xông hương.
76. Sau đó, vị tư tế rửa tay bên cạnh bàn thờ: nghi thức này biểu lộ lòng ước ao được thanh tẩy trong tâm hồn.
Lời nguyện tiến lễ
77. Sau khi đặt lễ phẩm trên bàn thờ, với các nghi thức kèm theo, vị tư tế mời giáo dân cùng với mình cầu nguyện, rồi đọc lời nguyện tiến lễ để kết thúc phần chuẩn bị lễ phẩm và sửa soạn đọc kinh Tạ Ơn.
Trong Thánh Lễ chỉ đọc một lời nguyện tiến lễ với câu kết ngắn, nghĩa là "Nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con", hay nếu câu kết có nhắc đến Chúa Con, thì "Người hằng sống hằng trịmuôn đời".
Kinh Tạ Ơn
78. Bây giờ bắt đầu điểm trung tâm và cao nhất của toàn bộ việc cử hành nghĩa là chính kinh Tạ Ơn, gồm việc tạ ơn và thánh hoá. Vị tư tế mời giáo dân hướng tâm hồn lên để cầu nguyện và tạ ơn Chúa; đồng thời liên kết họ với mình trong lời cầu nguyện, để nhân danh tất cả cộng đoàn dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, qua Ðức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần. Ý nghĩa của lời cầu nguyện này là toàn thể cộng đoàn tín hữu kết hiệp với Ðức Kitô mà tuyên xưng những kỳ công của Thiên Chúa và hiến dâng hy lễ.
79. Những yếu tố chính tạo nên kinh Tạ Ơn có thể phân ra như sau:
a. Việc tạ ơn (đặc biệt được nêu rõ trong lời tiền tụng) khi vị tư tế nhân danh toàn thể dân thánh mà tán tụng Chúa Cha và cảm tạ Ngài về tất cả công trình cứu chuộc, hoặc về lý do nào đặc biệt, tuỳ ngày, tùy lễ, tùy mùa khác nhau.
b. Việc tung hô: toàn thể cộng đoàn hợp cùng các thần thánh trên trời, hát "Thánh, Thánh, Thánh". Lời tung hô này là thành phần của chính kinh Tạ Ơn, nên cả giáo dân và vị tư tếcùng hát.
c. Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần (epiclesis): Hội Thánh đặc biệt kêu cầu Chúa Thánh Thần dùng quyền năng để hiến thánh các lễ phẩm do loài người dâng tiến, nghĩa là làm cho trởthành Mình và Máu Ðức Kitô, và để của lễ tinh tuyền được rước lấy trong khi hiệp lễ, đem lại ơn cứu độ cho những ai lãnh nhận.
d. Phần tường thuật việc lập bí tích Thánh thể và phần hiến thánh: hy lễ được thực hiện nhờ lời nói và việc làm của Ðức Kitô, hy lễ do chính Ðức Kitô đã thiết lập trong bữa tối sau hết, khi dâng tiến Mình và Máu Người dưới hình bánh và hình rượu, khi ban cho các Tông Ðồ để ăn và uống, và khi truyền cho các ngài phải làm cho mầu nhiệm này tồn tại mãi.
e. Tưởng niệm (anamnesis): nhờ việc tưởng niệm, khi thi hành mệnh lệnh đã lãnh nhận từ Ðức Kitô qua các Tông Ðồ, Hội Thánh tưởng niệm chính Ðức Kitô, nhất là nhắc lại cuộc khổ hình hồng phúc, sự sống lại vinh hiển và lên trời của Người.
f. Dâng tiến: nhờ việc dâng tiến trong chính cuộc tưởng niệm này, Hội Thánh, và nhất là Hội Thánh tập họp tại đây và trong lúc này, dâng của lễ tinh tuyền lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần. Hội Thánh có ý cho các tín hữu không những dâng của lễ tinh tuyền, mà còn học cho biết dâng chính mình,[lxxi] [71] và, nhờ Ðức Kitô làm môi giới, mỗi ngày một hiệp nhất hơn với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa là mọi sự trong mọi người.[lxxii] [72]
g. Chuyển cầu: các lời chuyển cầu cho thấy hy lễ Tạ Ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh, cả thiên quốc lẫn trần gian, và cho thấy lễ phẩm được dâng tiến đểcầu cho chính Hội Thánh và mọi chi thể, còn sống cũng như đã qua đời, là những chi thể đã được kêu mời thông phần ơn cứu chuộc và ơn cứu độ do Mình và Máu Ðức Kitô đem lại.
h. Vinh tụng ca kết thúc kinh Tạ Ơn: đây là lời chúc vinh Thiên Chúa, được giáo dân tán đồng và kết thúc bằng lời tung hô "Amen".
Nghi thức hiệp lễ
80. Thánh Lễ là bữa tiệc Vượt Qua, vì thế theo lệnh Chúa, các tín hữu đã được chuẩn bị như nghi thức ấn định, nên rước Mình Máu Thánh Chúa như của ăn thiêng liêng. Việc bẻ bánh và các nghi thức chuần bị khác nhằm đạt điều nói trên và đưa ngay giáo dân đến việc hiệp lễ.
Kinh Lạy Cha
81. Trong kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban bánh hằng ngày, bánh này đối với kitô hữu còn ám chỉ bánh Thánh Thể; lại xin Chúa thanh tẩy tâm hồn cho khỏi mọi tội lỗi, hầu của thánh được thực sự ban cho những người thánh. Vị tư tế đọc lời mời cầu nguyện, rồi hết mọi tín hữu cùng đọc kinh đó với ngài; một mình vị tư tế đọc tiếp kinh khẩn xin (embolismus), và giáo dân kết thúc bằng lời chúc vinh. Kinh khẩn xin khai triển ý nguyện cuối cùng của kinh Lạy Cha, tức là xin cho toàn thể cộng đồng tín hữu được thoát khỏi quyền lực sự dữ.
Lời mời cầu nguyện, chính kinh Lạy Cha, kinh khẩn xin và lời chúc vinh mà giáo dân dùng để kết thúc, được hát hay đọc rõ tiếng.
Nghi thức chúc bình an
82. Tiếp theo là nghi thức chúc bình an: Hội Thánh cầu bình an và hiệp nhất cho chính mình, cho toàn thể gia đình nhân loại, và các tín hữu tỏ bày sự hiệp thông cộng đoàn và lòng thương mến nhau, trước khi rước Thánh Thể.
Các Hội Ðồng Giám Mục sẽ tùy theo tinh thần và phong tục của mỗi dân tộc mà ấn định cách thức chúc bình an. Mỗi người chỉ nên tỏ dấu trao bình an cách chừng mực cho những người gần mình.
Bẻ bánh
83. Vị tư tế bẻ bánh Thánh Thể. Cử chỉ bẻ bánh, mà Ðức Kitô đã thực hiện trong bữa tối sau hết, đã trở thành tên gọi cho toàn bộ cử hành Tạ Ơn vào thời các Tông Ðồ. Nghi thức này nói lên rằng các tín hữu tuy nhiều, nhưng vì hiệp thông cùng một bánh ban sự sống là Ðức Kitô, Ðấng đã chết và sống lại vì phần rỗi thế gian nên trở thành một thân thể (1 Cr 10,17). Việc bẻ bánh bắt đầu sau khi trao bình an, và phải được thực hiện với lòng tôn kính, tuy nhiên không nên kéo dài quá mức cần thiết cũng như gán cho nó một tầm quan trọng quá đáng. Nghi thức này được dành riêng cho vị tư tế và phó tế.
Ðang khi vị tư tế bẻ bánh và bỏ một phần vào chén thánh thì ca đoàn hay ca viên hát đối đáp hay đọc lớn tiếng kinh "Lạy Chiên Thiên Chúa", và giáo dân đáp lại. Kinh này có thể được lặp đi lặp lại, bao lâu còn cần để kèm theo việc bẻ bánh. Lần cuối cùng được kết thúc bằng câu: "Xin ban bình an cho chúng con".
Hiệp lễ
84. Vị tư tế chuẩn bị mình bằng đọc thầm lời nguyện xin cho rước Mình và Máu Thánh có hiệu quả. Giáo dân thinh lặng cầu nguyện để chuẩn bị.
Sau đó vị tư tế giơ cho các tín hữu thấy bánh Thánh Thể trên đĩa hay trên chén, và mời họ dự tiệc của Ðức Kitô, đồng thời cùng với họ dùng lời Tin Mừng để bày tỏ lòng khiêm nhượng.
85. Như chính vị tư tế buộc phải làm thì ước mong các tín hữu rước Mình Thánh Chúa với những bánh thánh được truyền phép ngay trong chính Thánh Lễ, và trong những trường hợp đã được trù liệu, họ cũng được rước Máu Thánh Chúa (x. n. 283), đe,?nhờ cả những dấu chỉ, họ thấy rõ việc hiệp lễ là tham dự vào hy lễ đang cử hành.[lxxiii] [73]
86. Ðang khi vị tư tế rước lễ, thì bắt đầu hát ca hiệp lễ. Bài ca này có mục đích diễn tả sự đồng tâm hiệp nhất thiêng liêng giữa những người rước lễ, khi họ đồng thanh ca hát, đồng thời biểu lộ niềm vui trong tâm hồn và làm cho việc tiến lên rước Mình Thánh Chúa có tính cách cộng đoàn hơn. Có thể kéo dài hát ca hiệp lễ đang khi giáo dân rước lễ.[lxxiv] [74]Nhưng nếu có hát bài ca nào sau khi rước lễ, thì phải kết thúc bài ca hiệp lễ vào đúng lúc.
Phải liệu cho các ca viên có thể rước lễ cách xứng hợp.
87. Về ca hiệp lễ, có thể dùng điệp ca trong sách Graduale Romanum cùng với thánh vịnh hay không có thánh vịnh, hoặc dùng điệp ca với thánh vịnh trong sách Graduale simplex, hoặc bài hát nào khác thích hợp đã được Hội Ðồng Giám Mục chuẩn nhận. Một mình ca đoàn hát, hoặc ca đoàn hay ca viên hát với giáo dân.
Nếu không hát, thì giáo dân, hoặc một vài giáo dân hay độc viên, đọc ca hiệp lễ ghi trong Sách Lễ. Nếu không có ai khác, thì chính vị tư tế đọc sau khi đã rước lễ, và trước khi cho tín hữu rước lễ.
88. Sau khi cho rước lễ, vị tư tế và giáo dân tùy nghi cầu nguyện trong lòng một khoảng thời gian. Nếu muốn, tất cả cộng đoàn cũng có thể hát một thánh thi, một thánh vịnh hay một bài thánh ca ngợi khen nào khác.
89. Ðể hoàn tất lời nguyện của dân Chúa và để kết thúc toàn bộ nghi thức rước lễ, vị tư tế đọc lời nguyện Hiệp Lễ để cầu xin cho mầu nhiệm đã cử hành được sinh hoa kết quả.
Trong Thánh Lễ chỉ đọc một lời nguyện Hiệp lễ với câu kết ngắn, nghĩa là:
Nếu hướng về Chúa Cha, thì đọc: Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con;
Nếu hướng về Chúa Cha, nhưng câu cuối có nhắc đến Chúa Con, thì đọc: Người hằng sống hằng trị muôn đời;
Nếu hướng về Chúa Con, thì đọc: Người hằng sống hằng trị muôn đời.
Giáo dân tung hô "Amen", để làm cho lời nguyện đó thành của mình.
D. Nghi thức kết thúc
90. Nghi thức kết thúc gồm có:
a. Loan báo ngắn, nếu cần;
b. Chào và ban phép lành: có những ngày và có những trường hợp phép lành này được diễn tả một cách phong phú bằng một lời nguyện trên dân Chúa hay một công thức long trọng hơn;
c. Giải tán cộng đoàn giáo dân do phó tế hay vị tư tế nói;
d. Vị tư tế và phó tế hôn bàn thờ và sau đó các vị này cùng với các thừa tác viên khác cúi mình sâu chào bàn thờ.
Ý Cầu Nguyện Tháng 12
“CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI HÀNH HƯƠNG HY VỌNG"
Chúng ta hãy cầu nguyện để Năm Thánh mở ra cho chúng ta sự tăng cường về đức tin, giúp chúng ta nhận biết Đức Kitô phục sinh ở giữa cuộc đời chúng ta, biến đổi chúng ta thành những người hành hương đầy hy vọng Kitô giáo.
Giải Đáp Hôn Nhân & Gia Đình
Hạt Giống Đức Tin
Chuyên Đề
Đang Online
We have 171 guests and no members online
- 311/14/9 Đường 30/4, P. Phú Thọ,
Tp. Thủ Dầu Một, T. Bình Dương - This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
- 0274 3822 586
- mfvietnam.org