-
Ngày Đăng: 28 September 2020
-
Lượt xem: 1149
Thời tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông thay đổi tuần hoàn. Niên đại cũng dịch vụ của Giáo hội Công giáo nằm trong chu kỳ của ông ấy. Phụng vụ Giáo hội cũng có các mùa như: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Thường Niên, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Chúng ta đang chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh.
Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những việc chúng tôi làm trong Mùa Chay có nghĩa là gì? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay có ý nghĩa và không trở nên nhàm chán?
Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?
Vào những thế kỷ đầu tiên giáo, để sống đạo và thực hiện đạo, những người sở hữu ban đầu quan sát những người chung quanh xem họ đạo và thực hiện những điều hành, cụ thể như người làm việc giữ ngày Sabát, hay lên đền thờ cầu nguyện
. Tuy nhiên, ban đầu họp lại thành một nhóm tự động, cử hành rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức, tuyên bố đức tin; nhưng khi cử hành các đại lễ ngày như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, dù vẫn giữ nguyên những lễ ngày của người Do thái nhưng lại mặc định cho các đại lễ ngày ấy một ý nghĩa mới, không hạn chế: khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố gắng xuất hiện, mà còn tưởng tượng về Nạn nhân và Phục Sinh của Chúa Trời, cũng như Chúa Thánh Thần hiện xuống trên đồ đạc.
Mãi đến thế kỷ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: Liệu pháp có cử hành lễ Phục sinh vào ngày lễ vượt qua của người làm việc ở chế độ không? Tại các tổ chức giáo dục thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chuyển đổi. Tập đoàn riêng Antiokia lại ấn định Lễ Phục Sinh vào ngày Chúa nhật sau Lễ Vượt qua của người Do thái, trong khi đó, các chủ sở hữu tại Alexandria làm các nhà tính toán nên chuyển Lễ Phục Sinh vào thời điểm xuân phân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng Lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đồng giáo dục, vì Lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước Lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ Chúa Tể trong hoang địa 40 đêm.
Việc thực hiện Mùa Chay có từ thời kỳ đầu giáo dục, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi đến thế kỷ II, thời thánh Irênê, Giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ 2 đến 3 ngày, không ăn bất kỳ kỳ mới ăn được biến. Sang kỷ III, tại Alexandria, người ta kéo dài công việc ăn uống hết 1 tuần. Tích lũy của mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ IV, trong lễ quy của Công đồng Nicêa. Đây là thời gian tiêu chuẩn là một buổi lễ vui vẻ, nhưng ưu tiên vẫn là giúp những người dự tòng chuẩn bị lễ và đêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ IV, giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bảy và Chúa nhật. Sang thế kỷ V, tại Ai cập, người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bảy và thứ Sáu trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các món ăn chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Quản lý quy chế nhất là Ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Time ăn chay được định nghĩa theo sự khác nhau của mỗi đoàn giáo dục. Vì Season Chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên hát thế kỷ VII, người ta đã đi trước Mùa Cháy mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bảy của tuần trước khi bước vào Mùa Cháy, ngày hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa Chay, tổng hợp thời gian chuẩn bị cho Lễ Phục Sinh, cách Lễ Phục Sinh 9 tuần. Việc giữ chay ngày càng hỏi rõ ràng hơn, chẳng hạn như hạn chế ăn tối. Nhưng đến thế kỷ VIII, việc giữ chay được mở rộng, nghĩa là cho phép những người bệnh tật được ăn trứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định trước 3 giờ trưa, tức 9 giờ sáng, tiếp theo được “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII, việc ăn chay giảm dần và Giáo hội được phép ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chạy, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau làm tài chính với những đơn vị thực hiện cho dồi dào phong phú hơn ngày thường. Nhưng đến thế kỷ VIII, việc giữ chay được mở rộng, nghĩa là cho phép những người bệnh tật được ăn trứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định trước 3 giờ trưa, tức 9 giờ sáng, tiếp theo được “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII, việc ăn chay giảm dần và Giáo hội được phép ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chạy, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau làm tài chính với những đơn vị thực hiện cho dồi dào phong phú hơn ngày thường. Nhưng đến thế kỷ VIII, việc giữ chay được mở rộng, nghĩa là cho phép những người bệnh tật được ăn trứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định trước 3 giờ trưa, tức 9 giờ sáng, tiếp theo được “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII, việc ăn chay giảm dần và Giáo hội được phép ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chạy, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau làm tài chính với những đơn vị thực hiện cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo Hội Công giáo quy định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: Ngày Thứ Tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo Hội Chính thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài 5 tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ tư, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo Hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hoà giải, mỗi người hoà giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách Thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hoà tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật Lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm Cuộc Khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?
Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc La-tinh là “quadragesima”, có nghĩa là 40. Trong Kinh Thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môsê đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đất 40 ngày (x. Ds 13,25). Êlia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó ngài được thị kiến (x. 1 V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 đêm ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).
Như vậy, Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các Kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
Mùa Chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống, giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là đại đa số người Kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giàu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng dòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứu độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hoà với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hối, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hoà và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người sở hữu, nhiều khi nghe Chúa nói xong, chúng ta đã quyết tâm đi thú nhận, làm việc trả nợ, nhưng kết quả không mấy khả năng, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Nói chuyện với Thư Thánh với chúng ta: “This is at the same time, here is the day view.” (2Cr 6,2). Đây là thời gian khởi động trong Năm Phụng vụ, thời gian thuận lợi được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm thay đổi, tăng cường nghe Lời Chúa, yêu cầu, hệ thống hối hận, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý. Chúa, điều hành chế độ một cách quảng cáo đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang thiếu: đó là một trình điều hành thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu nhiệm Phục Sinh. Chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nguồn: gpvinh.com
Ý Cầu Nguyện Tháng 01
“CẦU NGUYỆN CHO QUYỀN GIÁO DỤC"
Chúng ta hãy cầu nguyện để quyền giáo dục của những người di cư, những người tị nạn và những nạn nhân chiến tranh luôn được tôn trọng và như thế bảo đảm cho việc xây dựng một thế giới tốt hơn.
Giải Đáp Hôn Nhân & Gia Đình
Hạt Giống Đức Tin
Chuyên Đề
Đang Online
We have 153 guests and no members online